Nằm ở phía cửa Đông thành nhà Hồ, làng Đông Môn, thuộc xã Vĩnh Long (Vĩnh Lộc – Thanh Hóa) được biết đến như một ngôi làng cổ xưa, còn lưu giữ lại nhiều nét truyền thống. Nhưng nơi đây còn nổi tiếng với một tục lệ khá lạ lùng: ăn thịt chuột trong ngày Tết. Ngày Tết, nhà nào trong làng không có nồi thịt chuột nấu đông thì xem như không có Tết.
Thịt chuột nấu đông: món “độc” trong ngày Tết
Không giống với một số làng có nghề săn chuột để bán lấy tiền và kiếm sống, người làng Đông Môn chỉ đào chuột để mang về ăn. Và cũng không phải quanh năm đi đào chuột mà chỉ có trong vòng 2 – 3 tháng cuối năm, giáp Tết Nguyên Đán.
Vào những ngày cuối năm, người làng Đông Môn lại đi đào chuột để chuẩn bị cho những ngày Tết.
Vào mùa khô, từ tháng 10 cho đến tháng Chạp âm lịch, sau khi lúa trên đồng đã thu hoạch và vụ đông cũng đã làm xong, dân trong làng lại rủ nhau ra đồng đào chuột đồng để tích trữ chuẩn bị cho ngày Tết. Những nhà nào không đi đào chuột được thì mua lại của nhà khác.
Vào mùa khô, khi đồng đã gặt xong, những hang chuột dễ được phát hiện hơn.
Trong số rất nhiều món ăn ngày Tết, ngoài những thứ đã thành quen thuộc của Tết cổ truyền người Việt như bánh chưng, giò chả, dưa hành,… thì Tết của người làng Đông Môn còn bắt buộc không được thiếu một thứ nữa: đó là nồi thịt chuột đồng nấu đông. Dù ít dù nhiều, món thịt chuột trong ngày Tết nhất thiết là phải có.
Không chỉ người lớn mà cả trẻ em cũng tham gia việc đi bắt chuột.
Khách quý đến nhà, ngoài các món khác thì thịt chuột cũng được đem ra để thết đãi. Chẳng cần biết khách ở xa đến có thích món này hay không, và dẫu khách có từ chối không ăn thì gia chủ vẫn cứ mời, bởi đó là tình cảm chân thành của gia chủ dành cho khách.
Chuột làm thực phẩm trong ngày Tết của làng Đông Môn nhất thiết phải là chuột đồng.
Theo người làng Đông Môn, thịt chuột sử dụng để làm thức ăn phải là thịt chuột đồng, và không phải thịt chuột đồng mùa nào ăn cũng ngon, phải biết lựa chọn theo mùa.
Thời điểm thịt chuột đồng béo và thơm ngon nhất chính là vào cuối vụ đông xuân (từ tháng 10 âm lịch trở đi), chuẩn bị bước sang mùa khô. Lúc này, nguồn thức ăn của chuột đồng dồi dào, ngoài ăn thóc, chuột còn bắt được thêm cả cua, cá từ những kênh, đầm đang cạn nước để ăn.
Với người làng Đông Môn, thịt chuột là món không thể thiếu trong những ngày Tết. Bên cạnh các món như thịt chuột hấp, thịt chuột nấu giả cầy, thịt chuột xào xả ớt, món thịt chuột nấu đông được xem là món "độc" của làng và chỉ dành cho khách quý.
Cách làm thịt chuột đồng của người làng Đông Môn cũng khá “dị”: thay vì nhúng vào nước sôi như một số nơi vẫn làm, người làng Đông Môn vùi chuột vào tro nóng khoảng 3 – 5 phút, sau đó mới lấy ra để chuốt sạch lông.
Chuột sau khi đã chuốt lông được thui trên lửa đốt bằng rơm cho đến khi vàng ươm. Cuối cùng, dùng lá xả và lá chanh chà xát lên thân chuột rồi mới mổ thịt. Trong khi mổ thịt sẽ chặt bỏ đầu, đuôi, ruột, và màng mỡ, chỉ giữ lại phần thân.
Tùy theo khẩu vị và ý thích của từng người mà thịt chuột được người làng chế biến ra nhiều món khác nhau như: nướng, quay, xào xả ớt, om dưa, kho… Riêng món nấu đông được coi là gia truyền của làng, được làm riêng và ăn trong những ngày Tết.
Giai thoại lịch sử
Ngày nay, nhiều người trẻ tuổi trong làng không còn nhớ rõ nguồn gốc ăn thịt chuột có từ khi nào, chỉ biết rằng từ xưa lắm, người làng đã có lệ này, và cứ thế tuyền lại cho con cháu. Tuy nhiên, nhiều người cao niên trong làng vẫn còn nhớ câu chuyện lịch sử liên quan đến món ăn này.
Ông Vũ Đình Lún (67 tuổi, người làng Đông Môn) cho biết: Từ thở nhỏ, mỗi khi hội làng vẫn nghe các cụ cao niên trong làng kể về sự tích của việc ăn thịt chuột ngày Tết. Chuyện kể, tục lệ ăn thịt chuột vào ngày Tết của làng Đông Môn bắt đầu có từ thời nhà Hồ.
Câu chuyện săn chuột đồng và ăn Tết bằng thịt chuột của người làng Đông Môn gắn liền với giai thoại lịch sử về thành nhà Hồ.
Trong khi đó, ông Vũ Đình Soén (63 tuổi, người đang trông coi đền thờ nàng Bình Khương, một trong những hạng mục di tích thành nhà Hồ) thì vẫn nhớ như in câu chuyện lịch sử của làng.
Theo câu chuyện lịch sử này, vào năm 1397, Hồ Quý Ly cho khởi công xây dựng thành Tây Đô với ý định dời đô từ Thăng Long vào Thanh Hóa. Vị trí chọn để xây thành có một phần phía Đông nằm trên địa phận của làng và được chọn làm cửa thành phía Đông (nên làng mới có tên gọi là Đông Môn – cửa Đông).
Một góc cửa Đông thành nhà Hồ, đồng thời cũng là cổng làng Đông Môn.
Để đốc thúc việc xây thành, ngoài huy động tất cả quân lính và thợ thuyền ra, Hồ Quý Ly còn bắt hàng vạn dân chúng trong vùng tham gia phục dịch.
Công việc xây thành rất khó khăn, nhiều người đã chết vì đá sập, kiệt sức hoặc bị quan lại trách phạt đánh đập.
Có người làng đói quá, tối bèn lẻn ra bẻ trộm măng tre (trồng làm lũy xung quanh thành) để về luộc ăn, quan quân bắt được, liền chém đầu và treo trước cổng thành để răn đe.
Đoạn thành qua làng Đông Môn. Tương truyền đây là đoạn thành xây dựng khó khăn nhất của Thành nhà Hồ. Tướng đốc công Trần Công Sỹ đã bị chôn sống tại đây.
Khi xây thành, đoạn thành phía Đông qua làng Đông Môn không hiểu sao cứ xây xong lại bị đổ sụp xuống. Nghi ngờ tướng đốc xuất xây thành là Trần Công Sỹ có ý đồ làm phản, Hồ Quý Ly bèn sai người bắt trói và đem chôn sống Công Sỹ.
Vợ Công Sỹ là nàng Bình Khương biết tin bèn đến để kêu oan cho chồng nhưng không được, Hồ Quý Ly vẫn chém đầu Công Sỹ. Nàng đã đập đầu vào đá chết theo chồng (nay vẫn còn đền thờ dân làng Đông Môn lập để thờ nàng Bình Khương).
Hồ Quý Ly còn trách phạt dân làng Đông Môn vì tội xây thành chậm bằng cách tịch thu hết thóc gạo, trâu bò, lợn gà trong làng để làm thức ăn cho quân lính xây thành. Sắp Tết, không còn gà lợn, dân làng bèn rủ nhau ra đồng đào chuột để về giết thịt ăn tết.
Về sau thành lệ, người dân trong làng cứ đến những ngày giáp tết là ra đồng đào chuột về ăn, như một sự tưởng nhớ đến người xưa và cũng là để nhắc nhau đừng bao giờ quên câu chuyện dân làng bị trách tội, phải gánh chịu những hình phạt đau thương.
Hiện nay, những người làng Đông Môn còn giữ được tục lệ và cách làm món thịt chuột đồng nấu đông trong ngày tết không còn nhiều. Nhiều cụ cao niên trong làng biết rõ về câu chuyện lịch sử kia đã lần lượt khuất núi.
Nhiều người băn khoăn tự hỏi: Liệu có một lúc nào đó, cùng với việc mai một đến “biến mất” hoàn toàn món ăn độc đáo trên thì người làng Đông Môn sẽ không còn ai nhớ đến tục lệ kia, và quan trọng hơn là một câu chuyện lịch sử đằng sau đó cũng sẽ bị lãng quên, chôn vùi theo thời gian?...
Nguồn: soha.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét